Cuối thể kỷ 19, đầu thế kỷ 20 Đại_học_Göttingen

Trong giai đoạn này Göttingen đạt đến đỉnh cao khoa học và nổi tiếng khắp châu Âu cũng như trên thế giới.

Vào năm 1903, trường có 1529 sinh viên cùng với 121 giáo sư. Năm 1904, Ludwig Prandtl về làm việc tại trường và đưa Göttingen trở lên nổi tiếng về cơ học chất lưu (fluid mechanics) và khí động lực học (aerodynamics) trong suốt hai thập kỷ. Ông được bổ nhiệm làm giám đốc viện nghiên cứu cơ học chất lỏng mang tên nhà vua Học viện Cơ học chất lưu Kaiser Wilhelm (Kaiser Wilhelm Institute for Fluid Mechanics). Nhiều sinh viên của ông đã có những đóng góp tạo nền tảng cho ngành khí động lực học.

Cho đến nay, 45 cá nhân giành giải Nobel đã là sinh viên đại học, nghiên cứu sinh, giáo sư hay có đóng góp vào sự nghiệp khoa học của trường . Hầu hết các giải Nobel này đều được trao vào nửa trước thế kỷ 20 để hình thành nên "kỳ quan Nobel Götingen" . Các nhà khoa học Göttingen trong thời kỳ đó đã góp phần tạo "cảm giác" cho không ít người rằng giải Nobel là của người Đức và tiếng Đức một thời được coi là ngôn ngữ của khoa hoc.

Hội trường lớn (Aula) nơi diễn ra những buổi lễ quan trọng và các chương trình hòa nhạc

Trong khoảng thời gian 1835-1837 hội trường lớn (Aula) được xây dựng tại quảng trường Wilhelm (Wilhelmsplatz) (cho đến nay hội trường lớn vẫn là nơi diễn ra những buổi lễ quan trọng và những chương trình hòa nhạc thường xuyên). Đây cũng là thời kỳ phát triển của các ngành xã hội học và nhân văn tại Göttingen. Triết gia Edmund Husserl, người được coi là cha đẻ của hiện tượng học (phenomenology) về dạy tại đây. Max Weber, nhà xã hội học nổi tiếng, cũng về đây nghiên cứu trong một học kỳ.